Anthurium là chi lớn nhất trong họ Ráy (Araceae) với hơn 1000 loài, có nhiều hình dạng và màu sắc khác nhau, tạo nên một chi thực vật nhiệt đới Trung Mỹ phong phú nhất. Chi Anthurium do Wilhelm Heinrish Schott mô tả khoa học vào năm 1829, khi du nhập về Việt Nam có tên là chi Hồng Môn. Tên chi Anthurium bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “ánthos” và “ourá” kết hợp với hậu tố -ium trong tiếng Latinh. Các loài Anthurium trong tự nhiên thường mọc biểu sinh hoặc trên cạn, có nguồn gốc ở châu Mỹ, chủ yếu từ miền Bắc Argentina và một số khu vực của vùng Caribe.
Hình ảnh: Một loài Anthurium (Hồng môn) tại KANSO Plant
Lá của các loài Anthurium có gân hình mạng (thường không phổ biến ở thực vật một lá mầm) và hình dáng, sắc độ của lá cũng thay đổi tùy theo giống loài và điều kiện sinh trưởng. Đây là chi có tính chất đa dạng và phức tạp, ngay cả trong cùng một loài, các giống Anthurium có lá bắc (spathe) có màu từ trắng đến hồng, tím và đỏ đến đen, bao quanh bông mo (spadix) cũng có màu sắc đa dạng tương tự. Lá trưởng thành tùy loài sẽ có các cấp sắc độ từ xanh tươi, xanh sẫm đến gần như đen hoặc gân lá nhạt màu đến sẫm màu và rõ nét. Tuy nhiên, điểm chung của tất cả các loài Anthurium là tán lá thường xanh mang tính ứng dụng cao trong trang trí. Dưới đây KANSO Plant đã tồng hợp một số loài Anthurium trở thành cây trồng trong nhà phổ biến, chiếm lĩnh nhiều vị trí trong bảng xếp hạng kiểng lá độc đáo không bao giờ lỗi thời.
Anthurium Clarinervium có một vài tên thuần Việt phổ biến như Hồng Môn Nữ Hoàng, Môn Tim, Môn Nhung Tim…và tên tiếng Anh là Velvet Cardboard Anthurium. Từ “Clarinervium” dịch từ tiếng Latinh hiện đại nghĩa là “có đường gân rõ ràng”, mô tả chính xác hình thái lá đặc trưng của loài này. Loài Anthurium Clarinervium được tìm thấy lần đầu tiên vào những năm 1950 trong rừng mưa nhiệt đới ở phía nam Mexico và được Eizi Matuda mô tả khoa học đầu tiên vào năm 1952.
Hình ảnh: Anthurium Clarinervium - KANSO Plant
Loài này dễ trồng, dễ nhân giống, tán lá đẹp và nhỏ gọn. Dáng lá trái tim, mặt trên của lá mờ và mịn như nhung, màu xanh đậm với các đường gân màu trắng bạc, mặt dưới của lá có màu xanh nhạt hơn nhiều. Anthurium Clarinervium thường bị nhầm lẫn với Anthurium Crystallinum do có vẻ ngoài tương tự nhau. Tuy nhiên khi đủ độ già, Crystal Anthurium có kích thước lớn hơn, dáng lá dài, gân lá có màu trắng kem và thưa hơn.
Anthurium Crystallinum được Linden & André miêu tả khoa học đầu tiên năm 1873, có nguồn gốc được xác định là khu vực Trung và Nam Mỹ (phân bố tập trung từ Panama đến Colombia và Peru). Một trong những đặc điểm nổi bật của Crystal Anthurium là những chiếc lá lớn hình elip hoặc hình trái tim (dáng dài hơn so với Clari) cùng gân trắng nổi bật. Lá của nó có thể thay đổi màu sắc, từ xanh nhạt đến xanh đậm, từ ánh tía đến tím sẫm (hoặc đỏ tía lạ mắt đối với những lá non). Anthurium Crystallinum được ví như phiên bản nhỏ của Anthurium magnificum bởi đặc điểm hình thái tương tự.
Hình ảnh: Anthurium Crystallinum - KANSO Plant
3. Anthurium Dorayaki
Anthurium Dorayaki là giống lai nổi tiếng của Anthurium Crystallinum. Nó có nguồn gốc từ làng Ciapus-Tamansari ở Indonesia và được lai tạo đầu tiên bởi một người nông dân được gọi là “Chú Udo” trong khu phố. Vì cây có phiến lá gần như tròn trịa nên nó được đặt tên theo món ăn ưa thích của Doraemon là Dorayaki - một loại bánh rán Nhật Bản giống như bánh kếp tròn. Ngoài dáng lá tròn và dày cùng kích cỡ khiêm tốn thì Anthurium Dorayaki có hầu hết các đặc điểm của Crystal Anthurium.
Hình ảnh: Anthurium Dorayaki - KANSO Plant
Anthurium Crystallinum Dorayaki còn có khá nhiều phiên bản khác nhau đặc biệt và độc đáo không kém như:
Anthurium Dorayaki Domino: Phiên bản nhỏ gọn và sinh trưởng chậm.
Anthurium Dorayaki Silver: Lai tạo giữa Anthurium Crystallinum Dorayaki và Anthurium Crystallinum Silver Blush, đặc trưng với gân lá màu xám bạc chằng chịt và loang màu gần như kín hết toàn bộ mặt lá.
Anthurium Dorayaki x Luxurians: Giống lai giữa Anthurium Dorayaki và Anthurium Luxurians có lá xanh sẫm đến xanh đen. Thừa hưởng dáng lá tròn trịa, nhỏ gọn từ Dorayaki và không có gân lá sáng màu thay vào đó là mặt lá có nhiều nếp gấp nổi tương tự như Luxurians.
Anthurium Dorayaki x Dressleri: Giống lai hiếm xuất xứ từ Indonesia, lai tạo giữa Anthurium Dorayaki và Anthurium Dressleri. Lá non có màu hạt dẻ, mặt lá gấp nổi thừa hưởng từ Dressleri.
Anthurium Veitchii là loài được mệnh danh là King Anthurium, có nguồn gốc bản địa là Colombia - cái nôi của nhiều loài thực vật nhiệt đới Nam Mỹ. Loài Anthurium khổng lồ này đã được Mast. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1876. Tên Anthurium Veitchii được đặt theo tên nhà làm vườn người Scotland, John Veitch, người đầu tiên mang loài này đến châu Âu.
Hình ảnh: Anthurium Veitchii (King Anthurium) - KANSO Plant
Anthurium Veitchii được đánh giá là khá khó trồng và nó cũng được các nhà sưu tập và lai tạo ưu tiên trong nhân giống, cho ra đời nhiều thế hệ con lai sở hữu đặc điểm ưu tú của King Anthurium. Bên cạnh đó, hai dạng thuần chủng là Wide form và Narrow form được phân loại dựa trên đặc điểm form lá. Cây trưởng thành có lá dài đến 150cm, dày và bóng với nhiều nếp gấp chia theo đường gân lá. Cụm hoa của Anthurium Veitchii thường có màu xanh nhạt hoặc trắng kem. Nếu một cây Anthurium có đặc điểm gần giống A. Veitchii nhưng lá bắc có màu đỏ hoặc hồng đào thì có nhiều khả năng đó là con lai (hybrid) của nó.
Anthurium Warocqueanum là Queen Anthurium, nữ hoàng của các loài Anthurium “sánh đôi” cùng King Anthurium. Loài này được T.Moore miêu tả khoa học đầu tiên năm 1878. Tên khoa học được đặt nhầm vinh danh nhà sưu tầm thực vật người Bỉ, M. Warocqué.
Có thể nói Veitch là người đã “se duyên” cho cặp đôi Anthurium Veitchii và Anthurium Warocqueanum khi được vườn ươm nhà Veitch (Veitch Nursery là hệ thống vườn ươm do John Veitch làm chủ rất nổi tiếng thời bấy giờ) giới thiệu và nhân giống rộng rãi trong những năm 70 của thế kỷ XIX. Cả hai loài Anthurium này cũng nhiều lần cùng xuất hiện trên các tạp chí và ấn phẩm về thực vật. Anthurium Veitchii xứng danh The King và Anthurium Warocqueanum là The Queen.
Hình ảnh: Anthurium Warocqueanum (Queen Anthurium) - KANSO Plant
Queen Anthurium gây ấn tượng với những chiếc lá dài rũ xuống mềm mại, mặt lá như nhung với hệ thống gân lá sáng màu nổi bật trên nền lá xanh mướt. Trên thị trường có 2 biến thể phổ biến của Queen Anthurium đó là Normal form (Wide form) và Dark Narrow form. Điểm phân biệt giữa hai form này là ở Dark Narrow form sẽ có bản lá hẹp hơn, xanh đậm và ít gân hơn, phần tai hay gốc lá của nó cũng hẹp và hướng vào trong hơn. Tuy nhiên để nhận diện thì cây cần up size đến độ lớn nhất định, khi còn nhỏ khá khó phân biệt.
Các biến thể và con lai (hybrids) phổ biến của Anthurium Warocqueanum có thể kể đến như: Anthurium Warocqueanum ‘Esmeralda’, Anthurium Warocqueanum ‘Dark Mama’ (Papillilaminum x Warocqueanum), Anthurium ‘Amazon Queen’ (Warocqueanum x Waterburyanum), Anthurium Warocqueanum x Crystallinum, Anthurium Warocqueanum x Rugulosum…
Anthurium Regale do Jean Jules Linden mô tả khoa học và được công bố đầu tiên trên ấn bản năm 1866 của tạp chí La Belgique Horticole. Đây là loài bản địa của Peru, gần thung lũng sông Huallaga, khu vực phía bắc Tingo María và Juanjuí, các vùng Huánuco và San Martín. Anthurium Regale sở hữu hầu hết các đặc điểm nổi trội của chi Anthurium như phiến lá trái tim, mặt nhung với hệ thống đường gân rõ nét. Tên “Regale” xuất phát từ tiếng Latinh “regalis” mang nghĩa là “royal - vương giả”.
Hình ảnh: Anthurium Regale - KANSO Plant
Môi trường tự nhiên của nó là vùng núi cao, nhiệt độ mát mẻ, ẩm cao và ánh sáng tán xạ trung bình cao đồng thời phát triển mạnh trong đất tơi xốp, giàu dinh dưỡng. Vì vậy Anthurium Regale được đánh giá là loài khá khó trồng, đòi hỏi sự am hiểu và kiên nhẫn chăm sóc. Nếu điều kiện trồng thỏa mãn các yếu tố phù hợp, khi đạt đến độ trưởng thành, lá Anthurium Regale có thể dài đến 120cm và rộng 90cm. Khi Anthurium Regale khô cháy đầu lá và viền lá, gân lá mỏng thưa và nhạt màu, sắc lá nhợt nhạt, dáng lá không có hình tim mà hơi méo mó và uốn cong thì đó là dấu hiệu cần kiểm tra lại chế độ chăm sóc, điều kiện môi trường cho cây.
7. Anthurium Luxurians
Anthurium Luxurians là loài được Croat & R.N.Cirino mô tả khoa học đầu tiên năm 2005. Trong tự nhiên, người ta tìm thấy A. Luxurians mọc dọc theo các con suối ở các khu rừng nhiệt đới Columbia. Điểm nổi bật đặc trưng của Anthurium Luxurians đó là dáng lá trái tim tròn trịa với 2 tai hở, mặt lá là các đốm nhăn nổi theo đường gân lá, tạo nên sắc độ đậm nhạt và bóng bẩy. Màu lá Anthurium Luxurians sẽ thay đổi từ màu nâu socola, xanh nhạt sang xanh sẫm đến khi trưởng thành.
Hình ảnh: Anthurium Luxurians - KANSO Plant
1. Ánh sáng thích hợp với Anthurium
Ánh sáng là yếu tố quyết định rất nhiều đến khả năng up size và sắc độ của Anthurium. Đủ sáng cây sẽ cho lá to, lên màu đẹp và gân lá cũng rõ hơn.
Đối với Anthurium trong nhà, ánh sáng gián tiếp sáng là tốt nhất, vì vậy lý tưởng nhất là cây này nên cách cửa sổ có ánh sáng lọc qua màn cửa cả ngày. Vào những tháng mát mẻ, ngày ngắn thì để cây tắm nắng trực tiếp cũng tốt, miễn là nắng nhẹ và nên tránh giữa trưa gay gắt. Nếu mùa mưa ít nắng thì có thể cân nhắc hỗ trợ đèn cho Anthurium.
Đối với Anthurium ngoài trời hoặc trong điều kiện vườn ươm, bóng râm và ánh nắng tán xạ là tốt nhất vì nó mô phỏng các điều kiện phát triển tự nhiên của các loài Anthurium. Tiếp xúc lâu dài với ánh nắng trực tiếp sẽ khiến Anthurium cháy lá.
Hình ảnh: Ánh sáng quyết định lớn đến độ upsize của Anthurium
2. Tưới nước cho Anthurium
Anthurium là loài ưa ẩm nhưng điều đó không có nghĩa là phải tưới quá nhiều nước. Cách tốt nhất là tưới chậm và đều để đảm bảo nước thấm đẫm toàn bộ phần rễ trong chậu (khi thấy nước thoát ra khỏi lỗ đáy chậu). Các lần tưới tiếp theo có thể cách 1-2 ngày tùy vào điều kiện thời tiết và độ ẩm của giá thể. Lượng ánh sáng và thời tiết, khí hậu sẽ trực tiếp chi phối tần suất nước cho Anthurium. Nếu cây được đặt ở những bóng râm, ánh sáng hạn chế thì nên để đất khô thoáng, không tưới quá nhiều trong khi những nơi sáng sủa, nắng tốt sẽ cần tưới nước giữ ẩm cho giá thể nhằm hỗ trợ quá trình quang hợp của Anthurium (điều này áp dụng cho đa số cây cảnh khác).
Chú ý đừng để nước đọng trên những chiếc lá. Nên tưới nước vào ban ngày, tốt nhất là buổi sáng để cây hấp thụ vì chiều tối nước chậm bốc hơi và đọng lại trên lá. Tán lá ướt sẽ tạo điều kiện cho sâu bệnh và nấm phát triển.
3. Giá thể phù hợp với Anthurium
Tương tự như các loài Ráy khác, Anthurium phát triển tốt trong giá thể tơi xốp, thoáng khí nhưng cũng đồng thời giữ ẩm cho cây, độ pH khoảng 5,5 đến 6,8. Các loài Anthurium cũng có nhu cầu dinh dưỡng cao nên giá thể cần bổ sung dưỡng chất ban đầu kết hợp với bón phân định kỳ tùy theo điều kiện chăm sóc và độ up size mong muốn.
Hình ảnh: Anthurium cần giá thể giàu dinh dưỡng
4. Nhiệt độ và độ ẩm đối với Anthurium
Anthurium ưa nhiệt độ mát mẻ và độ ẩm cao giống với môi trường sống của chúng trong tự nhiên. Độ ẩm không khí tối thiểu đối với Anthurium là 50% và lý tưởng là từ 70-80% để cây phát triển tốt. Vào mùa khô có thể phun sương để giữ ẩm cho lá (chú ý chỉ nên áp dụng vào ban ngày).
Các vấn đề thường gặp ở Anthurium
Bệnh cháy lá do vi khuẩn (Xanthomonas axonopodis pv. dieffenbachiae): Hình thành các vết tổn thương ứ nước dễ nhìn thấy dọc theo lá. Lá cũng bắt đầu chuyển sang màu vàng và hoại tử. Vi khuẩn xâm nhập qua các lỗ khí hoặc vết thương như vết rách, vết xước hoặc vết thủng trên lá.
Bệnh héo xanh vi khuẩn (Ralstonia solanacearum): Các triệu chứng héo điển hình có thể quan sát được với bệnh này. Cây có biểu hiện vàng lá và thân chuyển sang màu nâu. Hệ thống mạch dẫn giúp bệnh lây lan nhanh chóng. Dịch nhầy hoặc nhớt có thể rỉ ra từ vết thương của cây bị nhiễm bệnh.
Hình ảnh: Bệnh hại do vi khuẩn ở Anthurium
Bệnh thối rễ do nấm Rhizoctonia gây ra (Rhizoctonia solani): Thân cây, đặc biệt là những cây non bị úng nước và rũ xuống do hệ thống rễ bị nhiễm bệnh. Anthurium thối rễ sẽ không cấp nước cho cây dẫn đến vàng héo, bật gốc…
Bệnh nấm Phytophthora/Pythium (Phytophthora nicotianae var. parasitica và Pythium splendens): Cả hai loại nấm này hay còn được gọi là nấm mốc nước, thường gây ra các triệu chứng phổ biến như héo rũ, vàng lá và thối rễ.
Một số côn trùng gây hại Anthurium thường gặp có thể kể đến Rệp sáp, Rệp vảy và Nhện đỏ. Đây là các loài không mới nhưng hậu quả gây hại đối với cây trồng vẫn là rất lớn nên cần có biện pháp phòng ngừa ngay từ đầu. Hạn chế thu hút sâu bệnh và côn trùng gây hại bằng cách kiểm soát lượng nước và độ ẩm, tránh gây ẩm ướt kéo dài.
4. Độc tính ở Anthurium
Hầu hết các loài Ráy đều có hàm lượng tinh thể canxi oxalate cao gây độc cho người và vật nuôi. Anthurium cũng không ngoại lệ. Nếu vô tình nuốt phải bộ phận của cây Anthurium sẽ gây ra tình trạng đau rát họng, khó thở, nôn mửa…Biện pháp khắc phục bao gồm loại bỏ tất cả các bộ phận của cây và súc miệng bằng sữa hoặc nước. Canxi và sữa sẽ liên kết với nhau và làm giảm đau.
Những vấn đề về chăm sóc cây luôn là một trong những khó khăn mà các đối tác có thể phải đối diện khi bắt đầu tham gia vào thị trường kinh doanh cây cảnh. Thấu hiểu được điều đó, KANSO luôn nỗ lực nhằm cung ứng nguồn cây chất lượng ngay từ vườn trồng, đồng thời kèm theo tư liệu và tư vấn chuyên môn. Tất cả nhằm hỗ trợ các quý đối tác giảm thiểu tối đa rủi ro, tạo dựng uy tín trên thị trường và đối với khách hàng. Xem thêm